Lịch sử kiến trúc. Lịch sử kiến trúc nghiên cứu sự phát triển và lịch sử của nền kiến trúc thế giới thông qua việc nghiên cứu các ảnh hưởng ở các góc độ khác nhau như nghệ thuật, văn hoá, chính trị kinh tế và kĩ thuật. Nhìn chung, nhiệm vụ của lịch sử kiến
HGXbH. Mô tả văn bản do các kiến trúc sư cung cấp. Nằm nghiêng về phía thành phố Manhattan, Bảo tàng Solomon R. Guggenheim là dự án lớn cuối cùng do Frank Lloyd Wright thiết kế và xây dựng từ năm 1943 cho đến khi mở cửa chocông chúng vào năm 1959, sáu tháng sau khi ông qua đời, trở thành một trong những công trình dài nhất của ông. trong quá trình sáng tạo cùng với một trong những dự án nổi tiếng nhất của anh ấy. Hoàn toàn tương phản với mạng lưới thành phố Manhattan nghiêm ngặt, những đường cong hữu cơ của bảo tàng là một địa danh quen thuộc đối với cả những người yêu nghệ thuật, du khách cũng như người đi ngoài của Bảo tàng Guggenheim là một khối trụ bằng bê tông tái sinh màu trắng xếp chồng lên nhau xoay tròn hướng lên bầu trời. Tuy nhiên, những đường cong ấn tượng của bảo tàng bên ngoài đã có một hiệu ứng
Kiến trúc là một lĩnh vực nghê thuật có khoa học về trình tự sắp xếp các không gian, lên bảng vẽ thiết kế chi tiết kết cấu. Kiến trúc được hình thành từ khi loài người được sinh ra và để chống chọi lại các tác động từ thiên nhiên, thú dữ thì con người đã dùng trí của mình tạo ra những túp lều hoặc dùng những hang động làm nơi trú. Điều này cho thấy kiến trúc trước tiên được sinh ra nhằm mục đích phụ vụ cho nhu cầu công năng của con người . Từ nguyên thủy con người đã biết cách xây dựng nhà ở Cho đến thời kì đồ đá mới thì con người mới biết dử dụng đến vật liệu đá để xây thành tường. Gobekli Tepe được hình thành vào thiên niên kỷ thứ 10 TCN và bị bỏ vào thiên niên kỷ thứ 8 TCN ngôi nhà Cucuteni Trypillian Một ngôi nhà tìm thấy tại Skara Brae Đại lục, Orkney, Scotland, Vương quốc Anh Tiếp đến thời kì đồ đồng thì con người đã tạo ra các loại hình thức kiến trúc bắt đầu ra đời. Ví dụ Phòng đá, cột đá, lan can bằng đá, những hình thức khởi điểm của đền thờ. Kim tự tháp của Ai Cập Vạn lý trường thành của Trung Quốc Những cột mốc kiến trúc thế giới Thật thú vị, vì các nền văn minh cổ đại có niềm tin mạnh mẽ về tương lai nên việc bảo quản khối kiến trúc là một nguồn cảm hứng lớn khác cho thiết kế kiến trúc, chính vì thế mà một số công trình lâu đời nhất trên thế giới thực sự là những kiệt tác của mọi thời đại. Ví dụ điền hình cho công trình vượt mọi thời đại đó chính là các lăng mộ kim tự tháp Ziggurat của Ur ở Iraq, khoảng thế kỷ 21 trước Công nguyên Ziggurat và Kim tự tháp Khi chúng ta nói về công trình kiến trúc lâu đời. Thì theo thứ tự thời gian chúng ta sẽ nghỉ ngay về các lăng mộ của Ai Cập cổ đại. Các cấu trúc thiết kế bậc thang hung dũng đồ sộ được xây dựng ở Mesopotamia cho mục đích nghi lễ. Các nất thang được bước và nối tiếp lùi về phía bầu trời. Ziggurat hay kim tự tháp bậc thang điều này được xem là một mối liên kết giữa mặt đất và bầu trời, theo cách mà tổ tiên chúng ta nhìn thấy. Kim tự tháp Kheops ở Giza, Ai Cập, 2580 -2560 TCN Tuy nhiên, vì tác động của thiên nhiên và khả năng dáng tạo của con người càng ngay càng phát triển nê hình thức của lăng mộ Ai Cập đã có phần cải tiến, và ba kim tự tháp ở Giza chính là minh họa cho diện mạo được nâng cấp. Lịch sử kiến trúc qua con mắt của nền văn minh Hy Lạp và La Mã Trái với Ai Cập cổ đại, xã hội của Hy Lạp cổ đại là nơi đầu tiên đưa ra khái niệm về không gian công cộng, Agora là công trình khởi điểm cho khái niệm thiết kế không gian công cộng. Quan tâm đến cuộc sống nhu cầu của người dân, kiến trúc Hy Lạp cổ đại được tạo ra từ nền dân chủ và cống hiến cho người dân. Parthenon và Acland ở Athens, Hy Lạp Kiến trúc trong thời đại La Mã Sau khi lãnh thổ Hy Lạp bị người La Mã chinh phục. Mặc dù được truyền cảm hứng rất nhiều từ những công trình kiến trúc Hy Lạp, nhưng người La Mã vẫn có nhiều tính sáng tạo hơn,quy mô công trình cao to hơn và sử dụng đường cong vòm vào công trình Pantheon đấu trường La mã là ví dụ cho tính sáng tạo này. Đấu trường La Mã Kiến trúc Byzantine Từ kiến trúc vòm của thời đại La Mã , họ đã có một bước đột phá trong thiết kế là họ đã tìm ra cách để nâng nó lên các trụ cao hơn và sử dụng các hình thể bề mặt hình tam giác ba chiều được gọi là pervives. Hagia Sophia ở Istanbul 532-537 Kiến trúc thời trung cổ Kiến trúc thời trung cổ được xem là thời kỳ khốc liệt nhất trong quá trình lịch sử của ngành kiến trúc, bởi vì giai đoạn đó là sự kéo dài của những cuộc chiến tranh bom đạn, và các quần thể kiến trúc tồn tại được sau thời gian đó hầu như được dùng cho phòng thủ. Nhà thờ Đức Bà Paris 1163 -1345 Và việc bạn gặp một căn nhà vào thời trung cổ thì khả năng là không thể, nhưng một pháo đài hay lâu đài vào thời trung cổ thì bạn có thể thấy ở đâu đó cho đến bây giờ. Thời kỳ Phục hưng Cuối cùng, vào đầu thế kỷ 15 ở Ý, phong cách kiến trúc GOTHIC được sử dụng rộng rãi , thời Phục hưng đã đưa ra những cách nhìn mới về thực tế, tỷ lệ, đối xứng. Cuối cùng, Phục hưng có nghĩa là xem xét lại những kiến trúc cổ và logic cùng toán học với thẩm mỹ, giúp nâng cao tính kỷ luật và kết nối. Nhà thờ thánh Peter ở Vatican 1506-1626 Kiến trúc Baroque Sau khi Phục hưng tạo được chổ đứng vững chắc ở Ý và lan rộng khắp châu Âu, Baroque nó đã dần thành công vào đầu thế kỷ 17. Phục hưng được biết đến với sự logic toán học , trật tự và phong cách Baroque đã góp phần làm đa dạng hơn, tự do hơn đối với thiết kế kiến trúc, sự vui tươi, màu sắc . Tiêu biểu ở các yếu tố trang trí rời rạc ở mặt tiền.. Phục hưng là một hình tròn thì Baroque là một hình bầu dục. Nhà thờ San Carlo alle Quattro Fontane của Francesco Borromini, 1646 Tân cổ điển, hoặc một số phong cách ban đầu đã được hồi sinh Trong vài thế kỷ tiếp theo, thế kỷ thứ 18 và 19, thế giới nghệ thuật nói chung và kiến trúc nói riêng đã bị tạm dừng, hoặc thậm chí là quay trở lại các giai đoạn trước đó. Dường như mọi thứ đang có chủ đích quay về thời cổ điển, dẫn đến sự xuất hiện của kiến trúc tân cổ điển. Biệt thự Savoye của Le Corbusier 1929-1931 Kiến trúc hiện đại và sự kết thúc của một kỷ nguyên Nhiều sự việc quan trọng đã xảy ra vào những năm cuối của thế kỷ 19, cả về nghệ thuật lẫn kiến trúc. Art Nouveau được hưởng ứng mạnh mẽ và được xem là bước đầu hướng tới Chủ nghĩa hiện đại. Jean Nouvel Paris Philharmonie 2015 – 2016 Chủ nghĩa hiện đại là một trong những thay đổi đột phá trong thiết kế và kiến trúc. Tầm quan trọng của nó là vẫn truyền cảm hứng cho các kiến trúc sư ngày nay Tham khảo thông tin liên quan =>> Giải pháp thiết kế nhà phố trọn gói =>> Tổng hợp những mẫu thiết kế tivi độc đáo sẽ lên ngôi trong năm 2020
LỊCH SỬ THÀNH LẬPNgày 8/6/1961, Chính phủ có Văn bản số cho phép Bộ Kiến Trúc mở lớp đào tạo Kiến trúc sư. Đây có thể coi là mốc thời gian đầu tiên cho sự hình thành của Khoa Kiến 3/9/1961, Khai giảng khóa 1. Khóa này được biên chế thành ngành Kiến trúc khóa VI Trường Đại Học Bách khoa Hà Nội. Ban lãnh đạo lớp đào tạo do Thứ Trưởng KTS. Nguyễn Cao Luyện, KTS. Nguyễn Nghi là phó ban phụ trách công tác giáo nhà giáo đầu tiên là các thầy giáo KTS. Vũ Tam lang, HS. Đặng Quý Khoa, KS. Dương Tiến Thọ, KS. Lê Văn Hội, KS. Nguyễn Văn Tợ, KS. Nguyễn Khánh Hội. Năm 1962, 1963 có thêm KS. Dương Văn Cánh và KTS. Huỳnh bộ Kiến Trúc tham gia giảng dạy có KTS. Nguyễn Văn Ninh, KTS. Hoàng Như Tiếp, KTS. Trần Hữu Tiềm, KTS. Tạ Mỹ Duật, KTS. Đoàn Văn Minh, Ngọ, KTS. Nguyễn Ngọc Chân, KTS. Khổng Toán, Vương Quốc Mỹ, KTS. Nguyễn Hữu Thứt, KS. Vũ Thận, KS. Nguyễn Văn Tài, KS. Trịnh Hoài Linh, KS. Phạm Đình Biều… Cán bộ giảng dạy Mỹ Thuật có các họa sỹ Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đức Nùng, Lương Xuân Nhị, Vương Trình, Ngô Tôn Đệ, Trịnh Thiệp, Nhà Điêu khắc Lê Công Thành… Cán bộ giảng dạy các môn cơ sở và kỹ thuật cơ sở Thái Thanh Sơn, Tô Xuân Dũng, Hoàng Văn Thân, Nguyễn Bân, Lều Thọ Trình, Trương Hùng Thiên, Nguyễn Văn Yên, Nguyễn Kim Luyện, Nguyễn Thái… – Tháng 6/1962, kỳ thi tuyển sinh lớp Kiến trúc sư Khóa II tại Trường Trung cấp Kiến trúc Hà Đông đã có 40 thí sinh trúng tuyển.– Tháng 9/1962, tuyển sinh bổ sung thêm 60 sinh viên khóa II qua thi năng khiếu trong sinh viên Khoa Xây dựng khóa VII Trường Đại học Bách khoa.– Tháng 5/1963 tuyển sinh 30 sinh viên khóa III từ sinh viên khóa VIII Bách khoa qua thi kiểm tra năng khiếu.– Ngày 16/10/1963, lớp đào tạo Kiến trúc sư chuyển từ Trường Đại họcBách khoa về cơ sở Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội. Tháng 11/1963, hình thành bộ máy tổ chức và triển khai việc giảng dạy và học tập. Đơn vị chức năng nhiệm vụ có 2 tổTổ giáo vụ;Tổ Hành chính tổ 5/1965 Trường sơ tán về xã Thụy Vân, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.– Ngày 7/6/1967 Chính phủ có Quyết định sáp nhập lớp Kiến trúc sư vào Trường Đại học Xây dựng thành Khoa Kiến trúc Đô Kiến trúc Đô thị đào tạo Kiến trúc sư và Kỹ sư Đô thị. Ngành Kiến trúc có trên 180 sinh viên, gồm các lớp 64K, 65K, 66K, 67k, TC1, 17/9/1969 Chính phủ đã có Quyết định 181/CP về việ thành lập Đại học Kiến trúc, trên cơ sở của ngành Kiến trúc Đô thị tách ra từ Trường Đại học Xây dựng, địa điểm tại Hà mới thành lập, Khoa Kiến trúc có 4 bộ môn Bộ môn Mỹ thuật, Bộ môn Kiến trúc dân dụng, Bộ môn Kiến trúc Công nghiệp, Bộ môn Quy hoạch Đô thị & Nông thôn.– Đầu năm 1972, Trường sơ tán về Từ Châu, huyện Thanh Oai, Hà Tây.– Tháng 7 năm 1972 Trường sơ tán về xã Ngọc Thanh, huyện Mê Linh, Tỉnh Vĩnh 6 – 1981 Trường Đại học Kiến trúc trở về cơ sở ban đầu tại Km 10 đường Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. Khoa Kiến trúc cũng “an cư lạc nghiệp” tại địa điểm này và không ngừng phát triển. Thành lập Bộ môn Nhà ở và Bộ môn Công trình công cộng tách ra từ Bộ môn Dân dụng – 1981, Bộ môn Cấu tạo & trang thiết bị công trình 1997 nay là Bộ môn Công nghệ Kiến trúc, Bộ môn Lý luận & Bảo tồn 2001.– 1996 tách Bộ môn Quy hoạch để thành lập Khoa Quy hoạch.– 2005 thành lập các Bộ môn Nội thất, Đồ họa và bắt đầu đào tạo các chuyên ngành Mỹ thuật công tách các Bộ môn Mỹ thuật và Bộ môn Nội ngoại thất để thành lập Khoa Nội thất & Mỹ thuật công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học không ngừng được cải tiến và đã đem lại chất lượng cao trong công tác đào tạo Kiến trúc sư. Vào thời điểm 1996, lần đầu tiên mô hình đào tạo Kiến trúc sư theo xưởng ra đời, cho đến nay đã có hai lần chuyển đổi mô hình cho phù hợp. Mô hình đào tạo theo xưởng tại Khoa Kiến trúc là phù hợp với xu thế đào tạo Kiến trúc sư trên thế giới theo Hiến chương UIA 2005.THÀNH TỰUTrải qua hơn 50 năm đào tạo và trưởng thành từ năm 1961 đến nay, Khoa Kiến trúc đã đào tạo được hàng nghìn Kiến trúc sư, Thạc sỹ và Tiến sỹ Kiến trúc, nhiều người đã trở thành những nhà khoa học, Giáo sư, Phó Giáo sư, là lãnh đạo ở các cơ quan quản lý nhà nước và quản lý các doanh nghiệp, đặc biệt là nhiều thế hệ kiến trúc sư có uy tín đã được ghi nhận qua các giải thưởng Quốc gia, Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Hàng năm, sinh viên Kiến trúc luôn đạt thành tích cao trong học tập và đạt nhiều giải thưởng Kiến trúc trong nước và Quôc tế. Kể từ năm1989 đến nay, giải thưởng đồ án tốt nghiệp loa thành hàng năm, sinh viên của khoa đạt từ 50%-70% giải thưởng của toàn quốc. Chỉ riêng gần đây,59 đồ án tốt nghiệp được giải Loa Thành 10 giải nhất, 17 giải nhì, 19 giải 3 và 13 giải khuyến khích do Bộ Xây Dựng, Bộ Giáo dục Đào tạo vàTrung Ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Kiến trúc sư Việt Nam, Hội Xây dựng Việt Nam tổ thể khoa, các bộ môn và nhiều cá nhân đã nhận được Huân chương lao động của nhà nước, nhiều bằng khen của Chính phủ và Bộ Xây dựng. Khoa Kiến trúc – Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội luôn khẳng định được vị thế là cơ sở đào tạo Kiến trúc sư hàng đầu của cả nước, nhờ sự kế thừa và phát huy các thế hệ đi trước.
Lịch sử bộ môn Kiến trúc dân dụng By Bộ môn Kiến trúc dân dụng - Tháng 10 năm 1959 bộ môn Kiến trúc đã được thành lập cùng các bộ môn Kết Cấu, Cầu đường hình thành bộ khung của khoa xây dựng trường ĐH Bách khoa. Bộ môn Kiến trúc khi ấy bao gồm Kiến trúc dân dụng, Kiến Trúc công nghiệp, Quy hoạch, Vật lý Kiến trúc và một số môn kỹ thuật khác, được xem như tiền thân của khoa Kiến trúc sau này. Năm 1966 trường ĐH Xây Dựng được tách ra từ trường ĐH Bách Khoa và tới năm 1968 khoa Kiến Trúc được ra đời với các bộ môn Kiến trúc Dân dụng, Cơ sở Nghệ thuật, Kiến trúc Công nghiệp, Quy hoạch, Vật lý kiến trúc. Bộ môn Kiến trúc Dân Dụng đảm nhiệm một khối lương lớn các môn như Cơ sở kiến trúc, Lý thuyết sáng tác kiến trúc, Nguyên lý thiết kế nhà ở, Nguyên lý thiết kế nhà công cộng, Cấu tạo kiến trúc, Cơ sở tạo hình kiến trúc, Lịch sử đô thị, các chuyên đề cùng hệ thống đồ án môn học, đồ án tốt nghiệp cho khoá Kiến trúc. Bên cạnh đó bộ môn còn đảm nhiệm giảng dạy cho khoa Xây Dựng, giảng dạy tại chức và đào tạo cao học, nghiên cứu sinh. 05 THÀNH VIÊN ĐẦU TIÊN CỦA BỘ MÔN – Nhà giáo nhân dân Nguyễn Sanh Dạn, người tổ trưởng đầu tiên và sau này là hiệu trưởng trường ĐH Xây dựng từ 1966 tới 1976- Nhà giáo nhân dân, GS – TSKH Phạm Ngọc Đăng hiệu trưởng trường ĐH Xây Dựng từ 1980 tới 1990 . – Nhà giáo ưu tú PGS. TS. Hoàng Huy Thắng, nguyên trưởng khoa kiến trúc, nguyên hiệu trưởng trường ĐH Mỹ thuật Công nghiệp – Nhà giáo ưu tú. GS. TS. Nguyễn Đức Thiềm – PGS Lê Kiều Những thầy cô đã gắn bó chặt chẽ với bộ môn từ những ngày đầu như thầy Trương Quang Thao, thầy Trần Ngọc Chấn, thầy Trương Tùng, thầy Nguyễn Kim Luyện, thầy Nguyễn Đăng Hương, thầy Đặng Văn Út Các thầy là những sinh viên xuất sắc của khoá 1 trường ĐH Bách Khoa, hoặc của các trường ĐH ở Liên Xô, Trung Quốc hội tụ về. Năm 1962 bộ môn được bổ sung một lớp giảng viên trẻ như nhà giáo ưu tú GS – TS Ngô Thế Thi, PGS- TS Lâm Quang Cường , PGS Đặng Thái Hoàng, PGS – TS Phạm Đức Nguyên , các Kiến trúc sư Đinh Ngọc Vịnh, Phan Tấn Hài, Trương Tử Thành, Trần Văn Huyền… Một số giáo trình đã được biên soạn bởi các thầy đó là Nguyên lý thiết kế nhà ở, Nhà công cộng, Cấu tạo kiến trúc, Nhà công nghiệp, Giáo trinh Vật lý Kiến Trúc, Kiến trúc nhiệt đơí. Rất nhiều công trình đã được thiết kế, tiêu biểu là Nhà ăn 1-5, Ký túc xá Sinh viên ĐH Bách Khoa, Nhà tập trường múa VN, Nhà máy cơ khí Hà Bắc, Nhà máy cơ khí Mai Động… Đặc biệt là công trình nghiên cứu nhà lắp ghép tấm lớn đầu tiên ở miền bắc của thầy Trương Tùng, đã đóng góp lớn cho Hà Nội trong việc giải quyết nhà ở và hình thành các khu nhà ở tập thể lắp ghép đầu tiên của Hà Nội như Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ… Qua năm tháng bộ môn đã lớn mạnh về chất và lượng, nhiều cán bộ đã về hưu hay chuyển công tác, song bộ môn tới nay vẫn còn một lực lượng lớn. Tới nay 2010 bao gồm 25 cán bộ, trong đó có 1 GS, 1 PGS, 3 TS, 20 thạc sĩ, 6 NCS. Các lớp cán bộ trong bộ môn được đào tạo ở nhiều nước khác nhau như Liên Xô cũ, Trung Quốc, Anh, Đức, Pháp, Italia, Nhật, Canada, Mỹ… Xem thêm ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN BỘ MÔN KIẾN TRÚC DÂN DỤNG
bộ môn lịch sử kiến trúc